Phản Ứng Có Hại Của Thuốc

 

 

Chương trình giám sát thuốc của tổ chức y tế thế giới đưa ra một định nghĩa về phản ứng có hại của thuốc như sau (WHO, 1972):

Phản ứng có hại của thuốc có thể dự đoán được (nghĩa là có thể kiểm soát, có thể tránh được hoặc không) hoặc không thể dự đoán được; nó có thể xảy ra thường xuyên hoặc không thường xuyên đối với một thuốc hay nhiều thuốc mà hậu quả của nó có thể nghiêm trọng hoặc không nghiêm trọng. Việc phát hiện nhanh những phản ứng có hại phụ thuộc vào thời gian xử trí và công tác tổ chức hệ thống Cảnh giác Dược.

 

AE là bất kỳ một biến cố nào xảy ra trong quá trình sử dụng thuốc nhưng không nhất thiết do phác đồ điều trị bằng thuốc gây ra, đồng nghĩa có thể không có mối liên hệ nhân quả giữa thuốc và biến cố. Như vậy biến cố bất lợi bao gồm những ảnh hưởng do thuốc gây ra (ADR) và do cách dùng thuốc (giảm liều, quá liều, ngừng điều trị ... )

 

 

Mức độ nặng để lượng giá các triệu chứng và có tính chủ quan, thay đổi tuỳ đối tượng. Theo Tangrea et al (1991), có 3 loại:

-  Nhẹ: Gây ảnh hưởng ít, giảm khi điều trị triệu chứng.

-  Trung bình: Gây khó chịu, ảnh hưởng đến sinh hoạt, chỉ thuyên giảm một phần khi điều trị triệu chứng.

-  Nặng: Ngăn cản sinh hoạt, không giảm khi điều trị triệu chứng.

Hoặc một cách phân loại khác theo ECDEU (The Early Clinical Drug Evaluation Program):

-  Nhẹ: Triệu chứng xảy ra không làm thay đổi chức năng sống bình thường của bệnh nhân.

-  Trung bình:Triệu chứng ảnh hưởng đến chức năng sống nhưng không nguy hiểm.

-  Nặng: Triệu chứng gây nguy hiểm đến tính mạng, làm ảnh hưởng nghiêm trọng chức năng sống hoặc làm mất hết năng lực. (Assenzo and Sho, 1982).

Nhìn chung, cách phân loại theo mức độ nặng thường dựa vào khả năng cần phải có sự thay đổi trong dùng thuốc và mức độ ADR cần phải xử trí.


Nhẹ

Không cần xử trí hoặc dùng thuốc giải độc; không kéo dài thời gian nằm viện

Kháng histamin

Opioid

Gây buồn ngủ

Táo bón

Trung bình

Cần thay đổi điều trị hiện thời (điều chỉnh liều, thêm thuốc), nhưng không cần ngừng thuốc; có thể kéo dài thời gian nằm viện, hoặc điều trị đặc hiệu

Thuốc tránh thai


NSAID

Thuyên tắc tĩnh mạch

Tăng huyết áp và phù 

Nặng

ADR có thể đe dọa tính mạng và cần ngừng thuốc, kèm điều trị đặc hiệu.

Thuốc ức chế men chuyển

Phenothiazin

Phù mạch


Bất thường nhịp tim 

Tử vong

ADR trực tiếp hoặc gián tiếp làm bệnh nhân tử vong

Paracetamol

Thuốc chống đông

Hoại tử gan

Xuất huyết



-        Tử vong.

-        Đe dọa tính mạng.

-        Phải nhập viện hoặc kéo dài thời gian nằm viện.

-        Để lại di chứng nặng nề hoặc vĩnh viễn.

-        Gây dị tật bấm sinh ở thai nhi.

-        Các hậuquả tương tự khác.


Thời gian khởi phát được tính từ khi dùng thuốc lần cuối cho đến khi xuất hiện triệu chứng đầu tiên (Hoigne et al, 1990)

-        Cấp                  : 0-60 phút (chiếm 4,3%).

-        Bán cấp           : 1- 24 giờ (86,5%).

-        Muộn               : 1 ngày – nhiều tuần (3,5%).


Rất thường gặp

≥ 1/10

Thường gặp

< 1/10 nhưng ≥ 1/100

Ít gặp

< 1/100 nhưng ≥ 1/1000

Hiếm gặp

< 1/1000 nhưng  ≥ 1/10 000

Rất hiếm gặp

< 1/10 000


Năm 1977, Rawlins và Thompson đề nghị cách phân loại ADR thành loại A và loại B, và sau đó để dễ nhớ hơn, xếp thành loại A (Augmented – Quá mức) và loại B (Bizarre – Lạ thường) (1981)

Các phản ứng loại A bao gồm những đáp ứng bình thường và gia tăng phản ứng không mong muốn với thuốc, chiếm khoảng 75% các phản ứng có hại. Ví dụ, digoxin làm chậm nhịp tim phụ thuộc liều, nhưng tác dụng này trở thành một phản ứng có hại nếu nhịp tim quá chậm.

Các phản ứng loại A bao gồm đáp ứng dược lý tăng thêm quá mức tại vị trí tác dụng (như tác dụng hạ đường huyết quá mức của sulfonylurea), tác dụng dược lý mong muốn xảy ra tại một vị trí tác động khác (như đau đầu do giãn mạch não khi dùng nitroglycerin), và tác dụng dược lý thứ phát (như tác dụng hạ huyết áp tư thế đứng do phenothiazin).

Các phản ứng này thường phụ thuộc liều, dự đoán được và thường phát hiện được trước khi thuốc ra thị trường. Tuy nhiên, có một số tác dụng xảy ra muộn như tác dụng gây ung thư hoặc tác dụng có hại trên hệ sinh sản. Ví dụ ung thư âm đạo ở con gái có mẹ dùng diethylstilbestrol (DES) trong thai kỳ.


Tác dụng dược lý có thể dự đoán được

Không

Phụ thuộc liều sử dụng

Không

Tỷ suất bệnh

Cao

Thấp

Tỷ lệ tử vong

Thấp

Cao

Điều trị

Điều chỉnh liều

Ngừng thuốc

 

 

A
(Augmented)


Gia tăng

-     Có thể dự đoán được

-     Phụ thuộc liều dùng

-     Thường gặp

-     Hiếm khi gây tử vong

-    Hạ đường huyết do tiêm insulin

-    Nhịp chậm do thuốc chẹn badrenergic

-    Chảy máu do thuốc kháng đông

-    Giảm liều hoặc tạm ngừng thuốc

-    Cân nhắc tác dụng của các thuốc dùng kèm, tương tác thuốc

B
(Bizarre)


Lạ thường

-     Không dự đoán dược

-     Không thường gặp

-     Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cao

-    Phản ứng dị ứng với penicilin

-    Hoại tử tế bào gan cấp do halothan

-    Suy tủy do cloramphenicol

Ngừng ngay thuốc và tránh sử dụng trong tương lai

C
(Chronic/ Continuous)


Mạn tính

-     Không thường gặp

-    Ức chế trục hạ đồi - tuyến yên - tuyến thượng thận do corticoid

-    Rối loạn chức năng đại tràng do dùng thuốc xổ

-   Giảm liều hoặc tạm ngừng thuốc

-   Để ngừng thuốc hẳn có thể cần thời gian dài

D
(Delayed)


Chậm

-     Không thường gặp

-     Xảy ra hoặc trở nên rõ sau khi đã ngừng điều trị một thời gian

-    Ung thư do tác nhân alkyl hóa trong điều trị Hodgkin.

-    Dị dạng xương mặt ở trẻ em có mẹ dùng isotretinoin

Thường khó điều trị

E
(Ending of use)

Hội chứng ngừng thuốc

-     Không thường gặp

-     Xảy ra sau khi ngừng dùng thuốc, đặc biệt khi ngừng đột ngột.

-    Hội chứng cai opioid

-    Co giật khi ngừng dùng thuốc chống co giật (phenobarbital, phenytoin)

Ngừng thuốc từ từ

F
(Failure of therapy)

Thuốc mất hiệu lực

-     Thường gặp

-     Có thể do tương tác thuốc

Dùng không đủ liều thuốc tránh thai, đặc biệt khi dùng đồng thời với các thuốc gây cảm ứng enzym chuyển hóa thuốc ở gan

-   Tăng liều

-   Cân nhắc tác dụng của các thuốc dùng đồng thời, tương tác thuốc



Next Post Previous Post