Quy Trình Thay Băng Vết Thương Do Bỏng
Thường xuyên khử trùng sau mỗi ngày thay băng. Phòng cần trang bị các thiết bị hồi sức như: máy thở; nguồn cung Thay băng được tiến hành tại buồng thay băng, tốt nhất là buồng vô khuẩn và thường cấp oxy; máy hút; monitor theo dõi người bệnh; các dụng cụ và thuốc cấp cứu cần thiết khác.
- Ưu tiên những bệnh nhân cần xử trí kỳ đầu, bệnh nhân sau ghép da, tiếp theo là những bệnh nhân có diện tích bỏng hẹp, ít dịch mủ, sau đó là những bệnh nhân có vết bỏng rộng, cuối cùng là các bệnh nhân .
- Bệnh nhân , mắc bệnh truyền nhiễm hay có , anti HIV (+) phải được thay băng theo chế độ cách ly cùng với bộ thay băng riêng.
Bảo đảm quy định vô khuẩn trong thay băng: Nhân viên kíp thay băng rửa tay vô trùng; mặc quần áo mũ, khẩu trang vô trùng; đi găng vô trùng. Dụng cụ thay băng vô khuẩn, mỗi người bệnh phải dùng riêng để tránh lây chéo.
Mỗi bệnh nhân có khay thay băng riêng và được khử khuẩn cẩn thận. Trước khi thay băng cho bệnh nhân tiếp theo phải thay gang, áo quần và ngâm rửa tay.
Bác sĩ điều trị sẽ trực tiếp khám và chỉ đạo công tác thay băng để đánh giá vết thương, chỉ định các thuốc hay vật liệu thay thế da dùng tại chỗ vết bỏng và xử trí vết thương bỏng cùng với kíp thay băng.
: Sử dụng thuốc giảm đau toàn thân hoặc gây mê (theo quy trình riêng).
Điều dưỡng hữu trùng đưa người bệnh vào buồng băng, để nằm trên bàn thay băng (hoặc giường bệnh); dùng nỉa kéo cắt bỏ băng cũ, tháo bỏ các lớp gạc phía ngoài, để lại lớp gạc trong cùng. Dùng vô trùng hoặc thuốc tím pha loãng làm ẩm lớp gạc trong cùng.
Điều dưỡng vô trùng bóc bỏ lớp gạc trong cùng (gỡ miếng gạc song song với mặt da), chú ý nhẹ nhàng để không gây chảy máu và đau đớn cho người bệnh.
Dùng gạc mềm hoặc bông cầu vô trùng tẩm dung dịch nước muối rửa (hoặc các dung dịch sát khuẩn có chỉ định) để rửa vết bỏng; lấy bỏ giả mạc, dị vật; cắt lọc các hoại tử đang rụng hoặc còn sót lại sau phẫu thuật (nếu có). Lau rửa theo thứ tự từ vùng sạch đến vùng bẩn, vùng đầu mặt rửa trước, vùng bàn chân, tầng sinh môn rửa sau cùng).
Xử trí vòm nốt bỏng: nếu vòm nốt bỏng còn nguyên vẹn, chưa bị nhiễm khuẩn: trích rạch, cắt thủng nốt phỏng, tháo bỏ dịch nốt phỏng, cố gắng giữ lại vòm nốt phỏng, sau đó băng ép lại. Nếu nốt phỏng đã nhiễm khuẩn: cắt bỏ, tháo dịch nốt phỏng.
Trong khi thay băng, nếu chảy máu: đắp gạc tẩm nước muối ấm hoặc tẩm dung dịch adrenalin 1/200.000, hoặc bằng các biện pháp như đốt điện, thắt buộc mạch máu...
Rửa lại vết bỏng bằng dung dịch sát khuẩn. Thấm khô.
Căn cứ vào diễn biến, tình trạng vết thương mà người bác sĩ sẽ quyết định sử dụng thuốc điều trị tại chỗ tổn thương bỏng.
Điều dưỡng vô trùng chuẩn bị các thuốc hoặc vật liệu thay thế da dùng tại chỗ. Sau khi đã làm sạch vết bỏng, sử dụng thuốc tại chỗ vết bỏng theo một trong các cách sau:
+ Bôi thuốc trực tiếp lên vết bỏng một lớp đủ dày, kín hết vùng tổn thương bỏng, sau đó đắp một lớp gạc vô trùng bên ngoài. Nên đắp tiếp một lớp gạc tẩm vaseline bên ngoài lớp gạc trong cùng. Sau đó đắp vài lớp gạc vô trùng theo kiểu lợp ngói (độ dày của gạc tùy thuộc tình trạng dịch xuất tiết, mủ vết thương, thường từ 4-6 lớp gạc).
+ Tẩm thuốc vào một lớp gạc rồi đắp lên vết bỏng sao cho mép các tấm gạc chồng một phần lên nhau; đắp một lớp gạc tẩm vaseline chồng lên lớp gạc thuốc; đắp vài lớp gạc vô trùng theo kiểu lợp ngói (độ dày của gạc tùy thuộc tình trạng dịch xuất tiết, mủ vết thương, thường từ 4-6 lớp gạc).
Đối với vết bỏng đã lên mô hạt chuẩn bị ghép da, không bôi thuốc trực tiếp lên mô hạt từ 2-3 ngày trước ghép da.
Điều dưỡng giúp ngoài băng lại vết bỏng bằng băng cuộn hoặc băng lưới, không băng quá chặt làm ảnh hưởng đến lưu thông tuần hoàn của người bệnh.
Đưa người bệnh về giường, kiểm tra lại các , mạch, nhiệt độ, huyết áp của người bệnh và bàn giao cho điều dưỡng buồng bệnh.
VI. Theo dõi và xử trí tai biến
- Theo dõi trạng thái toàn thân, mạch, nhiệt độ, huyết áp... sau thay băng chặt chẽ, kịp thời phát hiện trạng thái sốc, đe dọa sốc để xử trí.
- Người bệnh choáng, ngất trong và sau thay băng: Tạm dừng thay băng, đặt nằm chỗ thoáng, mát, cho thở oxy, thuốc trợ tim. Khi người bệnh tỉnh, trở lại trạng ổn định cho phép mới thay băng tiếp.
- Theo dõi tác dụng phụ của thuốc giảm đau toàn thân hoặc theo dõi chung sau gây mê để xử trí kịp thời như tình trạng ngừng thở ngừng tim, nôn...
- Tình trạng đau đớn sau thay băng như kêu đau, rét run hoặc sốt cao: tiếp tục dùng giảm đau, ủ ấm, hạ sốt...